Huấn luyện
Kỹ thuật hạ cánh 7 - 5 - 3
Bùi
Thái Giang dịch
Trong các thảo
luận dưới đây, độ cao ước tính bằng fít (ft) so với mặt đất. Do
đó 7 ft (2m) nghĩa là khi chân ta còn cách đất 7 ft (2m)...
Đối với chúng ta những người
dùng hệ đo mét thì quy trình 2 - 1.5 - 1 có giá trị tương đương.
Trong bài này các giá trị độ cao bằng mét sẽ được đưa vào trong
ngoặc.
Độ cao so với mặt đất Các con
số 7 (2), 5 (1.5) và 3 (1) có ý nghĩa như sau:
7 (2) - Là độ cao
tối thiểu của chân ta so với mặt đất, khi đó ta bắt đầu flare
một nửa. Mặc dù độ cao ở đây là 7 ft (2m), nhưng nó có thể thay
đổi trong khoảng 7 (2) đến 10 ft (3m) so với mặt đất.
Trong ảnh này, hai dây brake
được kéo xuống. Vòm dù ở khoảng dưới mức 7 ft (2m)
5 (1.5) - Là độ cao tối ta bắt
đầu flare nửa còn lại. Sau khi kéo dây brake đến tầm ngực như
nói ở phần trên, ta giữ dây brake ở mức này cho đến khi vòm dù
bắt đầu ổn định ở dưới mức này một chút. Nếu vòm dù bốc lên đôi
chút hoặc vẫn giữ độ cao sau khi đã flare một nửa, ta chờ cho
đến khi năng lượng của vòm dù bớt đi và bắt đầu giảm độ cao
xuống dưới ngưỡng 5 ft (1.5m). Khi đó, người phi công nên tiếp
tục flare. Tốc độ kéo đây brake để flare tùy thuộc vào tốc độ
rơi. Mục đích là làm sao khi ta kéo dây brake để flare toàn phần
thì không thấp hơn 3 ft (1m) so với mặt đất (mục tiêu là trong
khoảng 2 đến 3 ft).
Ở đây người phi công đang ở
giai đoạn giữa, chờ độ cao giảm xuống dưới mức 5 ft (1.5m) trước
khi thực hiện flare nửa còn lại
3 (1) - Là độ cao ta cần flare
toàn phần hoặc hầu như hoàn toàn. Chú ý là trong điều kiện có
gió mạnh hơn, việc kéo dây brake để flare toàn phần chỉ cần hơn
nửa khoảng phanh một chút là đủ.
Người phi công này đang ở dưới
3 ft và đã thực hiện flare toàn phần hoặc gần như hoàn toàn
Hai giai đoạn
Giai đoạn 1
Khi tiếp cận chuẩn bị hạ cánh ở
đoạn lượn cuối, ta bắt đầu kéo dây brake từ vị trí cao nhất hoặc
ở gần vị trí tốc độ lớn nhất (trim speed) giữa 7 (2) và 10 ft
(3m). Sau khi giữ ở khoảng ngang ngực, chờ chút ít để xem vòm dù
bốc hay tụt độ cao. Nếu vòm dù tiếp tục hạ độ cao, ta sẽ tiếp
tục thực hiện giai đoạn flare thứ hai.
Nếu vòm dù bốc hay tụt độ cao,
hãy chờ cho đến khi nó ổn định ở mức dưới 5 ft (1.5m).
Giai đoạn 2
Tốc độ thực hiện phần flare thứ
2 cần điều chỉnh để bằng với tốc độ giảm độ cao. Nếu vòm dù giảm
độ cao chậm, thì ta có thể kéo thêm dây brake xuống nhẹ nhàng
cho đến khi kết thúc flare.
Nếu độ cao giảm nhanh trong
giai đoạn 1 và việc kéo dây brake không đủ để làm chậm lại quá
trình hạ độ cao hoặc ta vẫn hạ độ cao tương đối nhanh sau khi đã
kéo dây brake đến khoảng ngang ngực, ta cần phải thực hiện quyết
liệt hơn trong nửa flare cuối cùng. Cố gắng tính toán thời điểm
để hoàn thành flare ở khoảng 3 ft (1m) so với mặt đất.
Việc hạ cánh sẽ là khác nhau
tùy theo tình hình gió lúc hạ cánh. Khi có gió nhẹ hoặc không có
gió (dưới 8 km/h), thực hiện flare toàn phần ở độ cao 3 ft (1m)
so với mặt đất sẽ giúp ta tiếp đất nhẹ nhàng. Thực hiện flare
toàn phần sẽ giúp giảm thiểu tốc độ ta cần phải chạy khi tiếp
đất. Trong điều kiện gió nhẹ đây là việc hết sức quan trọng.
Khi gió mạnh hơn khoảng 13 km/h
hoặc hơn nữa , flare toàn phần có thể kéo ta về phía sau và
khiến cho vòm dù kéo lê ta sau khi đã flare. Thay vì thực hiện
flare toàn phần, ta chỉ nên kéo dây brake xuống ở mức cần thiết
là khoảng ngang ngực. Thực hành nhiều sẽ giúp ta cảm nhận một
cách tinh tế hơn việc điều chỉnh mức kéo dây brake cho phù hợp
với tốc độ rơi và tiến.
Trong điều kiện gió mạnh ta
không nhất thiết phải nhanh mà có lẽ chỉ như một đứa bé lon ton
bước khi hạ cánh và thường là không có tí tốc độ tiến nào khi
tiếp đất. Giống như các kỹ năng bay khác, thực hành sẽ giúp ta
‘đánh bóng’ các kỹ năng và sự cảm nhận. Trong quá trình thực
hiện flare ta cần tập trung chú ý vào tốc độ giảm độ cao. Nếu ta
chỉ quan tâm đến tốc độ tiến ta sẽ trượt mất thời điểm phải thực
hiện flare để có được cú hạ cánh nhẹ nhàng nhất.
Chia quá trình flare thành 2
giai đoạn làm cho ta dễ hiểu việc xác định thời điểm. Sau khi ta
đã cảm nhận và quen với việc điều chỉnh tốc độ flare và tốc độ
giảm độ cao, ta không cần phải nghĩ nhiều về độ cao nào thì làm
cái gì nữa. Ta càng thực hành hạ cánh, việc thực hiện flare càng
trở nên thuần thục và là một quá trình chuyển động với tốc độ
khác nhau trong suốt quá trình flare. Ta sẽ thực hiện việc kéo
dây brake chậm hơn lúc ban đầu và kéo mạnh hơn ở giai đoạn sau -
tốc độ tăng dần. Ta sẽ hiểu rõ mức flare trong các điều kiện gió
khác nhau. Ta sẽ kéo dây brake ít hơn khi có gió mạnh và flare
toàn phần trong điều kiện gió nhẹ.
Các yêu cầu chung để hạ cánh an
toàn
-Hạ cánh phải được thực hiện
trong điều kiện càng ngược chiều gió càng tốt. Nó sẽ giúp giảm
tốc độ tiến và tăng mức độ an toàn khi hạ cánh.
-Từ khoảng 30 ft (10m) so với
mặt đất, vòm dù cần có tốc độ đủ tốt để thực hiện quá trình
flare để triệt tiêu năng lượng. Quá trình flare sẽ không có tác
dụng nếu ta bay xuống hạ cánh ở tốc độ có độ rơi nhỏ nhất (Min
Sink speed). Thường thì ta sẽ thấy có wind gradient khi gần mặt
đất làm cho tốc độ của vòm dù sẽ giảm đi. Giữ dây brake ở gần
mức cao nhất sẽ giúp giữ năng lượng của vòm dù dùng cho quá
trình flare.
-Phi công phải bước khỏi đai
ngồi, người được giữ bằng các dây điều khiển chứ không được ngồi
trong đai ngồi khi tiếp cận mặt đất ở đoạn cuối. 30 ft (10m) so
với mặt đất là độ cao mà phi công cần phải bước khỏi đai ngồi.
Đôi chân sẽ giúp bảo vệ người phi công nếu như có turbulence hay
có vấn đề gì bất thường xảy ra ở độ cao gần mặt đất.
-Khi chuẩn bị tiếp đất cần nhìn
xa ra phía trước và ta sẽ học được cách cảm nhận độ cao. Nếu ta
nhìn xuống dưới chân, thì sẽ có xu hướng tăng cảm giác lo lắng
khi điều kiện gió nhẹ mà tốc độ tiến thì lớn. Thay vào đó, xác
định độ cao và hạ độ cao bằng cách quan sát xung quanh. Chạy là
một phương án khi hạ cánh, nhưng bay xuống quá nhanh thì không.
-Giảm độ cao càng nhanh, thì
việc flare càng phải nhanh. Nếu sau giai đoạn 5 (1.5) mà vòm dù
vẫn đi xuống quá nhanh thì phải thực hiện ngay flare toàn phần.
-Vấn đề gì sẽ xảy ra khi ta nhận
thấy là ta đã thực hiện flare toàn phần quá sớm?
-Nếu dưới 10 ft (3m), giữ nguyên
vị trí flare. Nếu ta nhả dây brake lên sau khi đã flare toàn
phần, vòm dù có thể phồng lên lao về phía trước và quăng người
phi công xuống đất. Hầu hết các vòm dù cấp học viên lúc này sẽ
rơi kiểu nhảy dù và ta sẽ hạ cánh với tốc độ không quá cao trong
tình huống này.
-Nếu ở trên 10 ft (3m), nhẹ
nhàng thả dây brake trở lại vị trí ngang ngực. Điều này sẽ giúp
không bị thất tốc và vòm dù vẫn duy trì tốc độ cho quá trình
flare. Sau đó ta có thể thực hiện flare trở lại khi độ cao đã
giảm xuống dưới mức 5 ft (1.5m).
TÓM LẠI: Khi bắt đầu vào tuyến
hạ cánh
-ở độ cao khoảng 10m: nâng 2 tay
cao lên từ từ để dù đạt đến tốc độ tối đa (không kéo dây lái),
BƯỚC KHỎI ĐAI NGỒI, NGƯỜI TRONG TƯ THẾ THẲNG ĐỨNG CHUẨN BỊ HẠ
CÁNH.
-giữ nguyên dây lái ở vị trí này
khoảng 5 giây khi đã vào tuyến hạ cánh để dù ổn định trên đầu
(chú ý là phải hạ cánh ngược gió).
-ở độ cao khoảng 1m: kéo 2 dây
lái khoảng 5-10cm từ từ giảm tốc độ vòm dù để dù bay thẳng hướng
dự định hạ cánh và là là mặt đất;
-từ từ kéo thêm dây lái để phanh
cho đến khi vòm dù triệt tiêu hoàn toàn năng lượng
-kéo dây lái cho đế tối đa để
phanh hoàn toàn.
Không phanh quá mạnh mà chỉ
tăng dần, nếu phanh quá mạnh, tốc độ tiến chuyển thành lực nâng,
người và dù đánh võng, sau đó vòm dù chao về phía trước để tăng
tốc độ trở lại, nếu độ cao không còn đủ lớn thì dễ bị rơi phịch
xuống đất (2 mét thì ok, nhưng 4-5m thì mút xốp 17 cm cũng không
giúp gì được - vì nó chỉ đủ giảm chấn khi hạ cánh bằng lưng ở 2
m thôi).
Khi hạ cánh (xem hình trên) ta
kéo dây lái một chút để bay là là mặt đất và chờ tốc độ dù giảm
đi đôi chút và chuẩn bị giảm thêm độ cao, kéo thêm dây lái để
phanh, làm như vậy cho đến khi dù không còn tốc độ tiến để
chuyển thành lực nâng nữa, và vòm dù hoàn toàn bị triệt tiêu hết
tốc độ, tại thời điểm này ta có thể đứng thẳng người lên và bước
ra khỏi đai ngồi để hạ cánh. Tuy nhiên để chuẩn bị việc hạ cánh
tốt thì nên BƯỚC KHỎI ĐAI NGỒI, NGƯỜI TRONG TƯ THẾ THẲNG CHUẨN
BỊ HẠ CÁNH từ khi ở khoảng 10m.
Nguồn: Landing A Paraglider - Timing The Flare, Jeff Greenbaum