Huấn luyện
Các yếu tố vật lý trong dù
lượn (Phần 2)
©
Stuart Caruk
Bùi
Thái Giang dịch
Vì sao chúng ta lại bay như cách chúng ta hiện đang bay
Trong bài
trước chúng ta đã tìm hiểu đường cong sức cản đối với một máy
bay được tạo ra như thế nào. Nếu tạo hình đối xứng gương của
đường cong tổng sức cản của một cánh bay như Hình 1 của bài
trước, nó gần xấp xỉ như đường cong cực được tạo ra cho cánh bay
đó. Ví dụ về đường cong cực được nêu trong Hình 4 dưới đây. Các
nhà sản xuất dù lượn có thể cung cấp bản sao đường cong cực của
mọi cánh dù lượn. Thông tin từ đây là hết sức quan trọng để giúp
ta so sánh tính năng của các vòm dù lượn khác nhau và để có thể
dễ dàng chứng minh hay bác bỏ những thông tin mà nhà sản xuất đã
công bố trước đó. Trong trường hợp thông tin không được cung cấp
hay không có sẵn, vẫn có thể dễ dàng tự mình tạo ra đường cong
cực cho bất kỳ vòm dù nào mà ta đang bay bằng cách sử dụng một
vài loại vario mới có đầu đo tốc độ.
Một điểm hay
gây nhầm lẫn trong số các phi công đang tìm cách so sánh tính
năng của các vòm dù khác nhau là một số nhà sản xuất sử dụng
diện tích, sải cánh hay tỷ lệ dài-rộng hình chiếu, trong khi các
nhà sản xuất khác sử dụng diện tích phẳng. Hình chiếu chính là
phần chiếu từ trên xuống trong thực tế là thành phần ta sử dụng
trong khi bay, còn thành phần phẳng là cái mà ta có khi đo kích
thước vòm dù trải phẳng trên mặt đất. Do cách kết nối dây của
các nhà sản xuất cũng khác nhau cho nên so sánh các thông số
hình chiếu có lẽ là cách tốt hơn để thu được các thông số tính
năng thực sự so với khi ta sử dụng thông số hình phẳng. Ta cần
đặc biệt thận trọng khi nghe thông tin của các nhà sản xuất giới
thiệu khi mà họ chọn cách là không cung cấp tất cả dữ liệu mà
một phi công thông thường cần biết. Nếu nhà sản xuất nói là dù
lượn của họ cho phép có thể bay với một dải trọng lượng vô cùng
rộng, tốc độ cao nhất gần như gấp đôi các dù cạnh tranh nhưng
lại từ chối cung cấp tốc độ khi thất tốc và/ hoặc tốc độ rơi của
vòm dù lượn của mình liệu điều đó có làm cho ta thấy có một chút
gì đó đáng ngờ không?
Hình 4 Đường
cong cực
Quan sát
đường cong cực ta có thể dễ dàng thấy tốc độ mà dù lượn của ta
bị thất tốc và tốc độ ta muốn bay để đạt được tốc độ rơi tối
thiểu hay tốc độ lượn tốt nhất trong điều kiện hoàn toàn không
có tí gió nào. Tại sao thông tin ở đây lại quan trọng và chúng
ta có thể sử dụng chúng như thế nào? Hãy nhớ là việc hạ cánh đối
với những dù lượn đời trước đây nhằm vào một đồng xu trên mặt
đất là tương đối đơn giản như thế nào. Nhiều người cho rằng góc
tiếp cận dốc hơn của những dù lượn kiểu cũ làm họ dễ hạ cánh hơn
và ít bị bồng bềnh hơn. Cái mà họ có hoặc không nhận thức được
là làm thế nào mà khi bay ở những tốc độ khác nhau lại có thể
làm tăng đáng kể tốc độ rơi.
Với các dù
lượn kiểu cũ, nếu ta còn độ cao hơi cao một chút thì có thể tăng
tốc độ, và ta sẽ rơi nhanh hơn, hay cũng có thể bay chậm đi để
làm tăng tốc độ rơi của mình, làm cho việc kiểm soát đường lượn
tương đối dễ dàng. Tất nhiên nếu để dù bay quá chậm cũng dẫn đến
làm thất tốc vòm dù và gây nguy hiểm cho phi công. Trong những
trường hợp đặc biệt hay ở những chố mà đường tiếp cận không như
mong muốn, thì đã có các kỹ thuật dùng để giúp ta xuống nhanh
hơn.
Là một vấn đề
thực hành, ta cần phải xác định một cách tương đối các vị trí
dây break để đạt được tính năng khi bay như ta mong muốn. Ở đây
một điều bắt buộc phải nhớ là ‘Chớ có tự mình thử những thứ này
một mình, nếu trước hết không trao đổi với huấn luyện viên’. Vào
một ngày đẹp trời và tại một độ cao an toàn, hoàn toàn để tự do
không kéo dây break rồi để ý tốc độ rơi hiển thị trên Vario. Dần
dần và nhẹ nhàng kéo dây break từng khoảng 1 phân một và đợi tốc
độ rơi ổn định. Kéo thêm 1 phân nữa dây break và chờ. Và tiếp
tục thực hiện như thế ta sẽ thấy tốc độ rơi dần dần giảm đến một
điểm, rồi sau đó bắt đầu tăng lên. Khi tốc độ rơi bắt đầu tăng,
thì thả bớt 1 phân dây break và ta sẽ bay ở tốc độ rơi tối thiểu
của dù lượn. Nhớ ghi lại vị trí tay, vì đây là một điểm quy
chiếu quan trọng để có thể bắt đầu với.
Một khi đã
xác định được vị trí dây break ở tốc độ rơi cực tiểu thì ta cần
cẩn thận khi tiếp tục thử nghiệm việc kéo dây break nhiều hơn
nữa vì điều đó có khả năng làm thất tốc vòm dù của ta. Nếu ta
muốn tiếp tục thử nghiệm ta có thể kéo dần dần dây break thật
đều và sẽ thấy tốc độ rơi tăng dần cho đến điểm mà cánh dù bị
thất tốc. Tốt nhất là ta nên thực hiện dưới sự giám sát và hướng
dẫn của huấn luyện viên có kinh nghiệm ở những nơi thích hợp.
Nếu bỗng thấy dây break trở nên nhẹ bẫng thì ta cần có các hành
động thích hợp để giúp vòm dù tăng tốc độ bay trở lại vì khi đó
ta đang ở tình huống thất tốc vòm dù!
Điều quan
trọng cần chú ý là vị trí dây break ở tốc độ rơi cực tiểu sẽ
không giống nhau với mọi chuyến bay. Thay đổi trọng lượng của dù
lượn, bằng cách chất tải nặng hơn với một phi công có trọng
lượng lớn hơn hay làm cho dù lượn có hệ số tải trên cánh cao hơn
bằng cách quay, sẽ làm trượt đường cong cực theo chiều ngang,
đòi hỏi ta phải tinh chỉnh vị trí tay của mình với mỗi chuyến
bay.
Khi đã nhận
thức rõ là có phần trước và phần sau trên đường cong cực sẽ giúp
ta đạt được mức tính năng cao hơn đối với dù lượn của mình. Ví
dụ, nếu ta đang ở vị trí cần kéo dài thời gian bay trong điều
kiện lực nâng hết sức nhẹ hoặc không có, trong khi đang đợi có
thermal chuyển đến; tốc độ bay lúc này là hết sức quan trọng.
Nếu ta bay quá nhanh, sức cản gia tăng sẽ làm cho rơi nhanh hơn
cần thiết; trong khi giữ chặt dây break chờ đợi những điều tốt
đẹp sắp đến có thể đưa ta vào phần phía sau của đường cong sức
cản. Việc này làm cho ta rơi nhanh hơn hơn và rơi vào tình huống
có thể làm thất tốc vòm dù hơn là điều mà ta đang mong muốn.
Vấn đề với
những dù lượn đời trước đây là nếu muốn kéo dài thời gian bay,
ta cần làm sao để tốc độ rơi là thấp nhất. Đây là vấn đề của các
phi công bay đường dài vì tăng tốc dù lượn lên để chuyển tiếp
giữa các cột thermal gây ra tốc độ rơi lớn hơn không cần thiết,
nhưng nếu bay ở tốc độ rơi tối thiểu thì không thể đến được bất
cứ nơi nào. Trong Hình 5 người ta so sánh đường cong cực điển
hình của dù lượn đời trước đây với một trong số những dù lượn
hiện đại hơn hiện tại. Cái thật sự đáng quan tâm là đường cong
cực của một vài dù lượn ở cấp “bi gin nờ’ có tính năng gần với
tính năng của các dù lượn thi đấu cách đây vài năm. Chú ý là các
dù lượn mới hơn có đường cong cực phẳng hơn. Trong thực tế,
chúng còn có góc lượn cũng phẳng hơn. Điều hết sức quan trọng ở
đây là chúng ta có thể có những tính năng cực tốt với một cái
vòm dù mà không cần có các tính năng đôi khi có vấn đề của một
số các loại dù ‘thời thượng’ mẫu cũ hơn.
Hình 5 So
sánh đường cong cực của hai vòm dù
Khi chuyển
sang những dù lượn mới hơn, nhiều phi công bị bất ngờ là ở trong
những khu vực hẹp mà dù lượn đơn giản là không chịu hạ xuống, và
họ không có đủ khoảng rộng để trải vòm dù của mình. Nếu ta đã
quen với việc tuyến vào hạ cánh hơi cao, và sau đó hoặc tăng
tốc, hoặc giảm tốc độ xuống để nhằm tăng tốc độ rơi của mình;
thì ta có thể ngạc nhiên là ta sẽ bay vọt đến điểm hạ cánh và
dường như cánh dù vẫn không chịu thôi bay lượn. Hãy nhìn đường
cong cực xem có thể giải thích lý do tại sao. Vì tính năng của
các dù lượn bây giờ là cao hơn nhiều, cho nên thay đổi tốc độ
không có tác động đáng kể gì đến tốc độ rơi như ta đã biết đến
trước đây. Khi ta kết hợp thói quen này với tốc độ cao hơn để
lái những chiếc dù này hướng đến điểm hạ cánh, rất dễ thấy là
ban có thể bay trượt qua khu vực dự kiến hạ cánh trừ khi ta phải
tính toán và chuẩn bị hết sức cẩn thận tuyến tiếp cận để tiếp
đất.
Nếu là một
phi công thi đấu hay bay đường dài ta sẽ thật sự cần đến kiểu
đường cong cực này vì ta có thể bay chậm lại trong khi đang bay
theo khối thermal hay tăng tốc khi di chuyển giữa các khối
thermal mà không phải chịu thiệt thòi gì bởi tốc độ rơi (vì tốc
độ rơi hầu như không có sự khác biệt). Trong nhiều trường hợp
những dù lượn mới hơn đạt được tốc độ lượn tốt nhất bằng cách
không kéo dây break (nghĩa là để dây break ở vị trí cao nhất)
hoặc trong vài trường hợp phi công chỉ cần đơn giản là đẩy thanh
tăng tốc (speedbar).
Người ta nói
rằng hạ cánh những dù lượn mới hơn thì khó hơn nhiều so với
những dù lượn thế hệ trước, và khó khăn trong việc điều khiển dù
làm cho chúng trở nên nguy hiểm hơn trong sử dụng. Kinh nghiệm
và suy nghĩ của bản thân (tác giả) thì tin rằng dù lượn kiểu mới
có lẽ là an toàn hơn các dù lượn kiểu cũ, nhưng nó đòi hỏi phi
công phải hiểu rõ là tính năng của dù mới là khác so với các dù
kiểu cũ hơn để có thể sử dụng và điều khiển dù một cách an toàn.
Có khả năng lượn xa hơn và bay với tốc độ cao hơn cho phép ta có
nhiều lựa chọn hơn khi lựa chọn điểm hạ cánh so với trước đây.
Nếu ta đang ở trong vùng toàn là núi đá và đất cứng, nhưng dù có
khả năng bay chậm lại đến tốc độ rơi cực tiểu sẽ cho phép ta kéo
dài thời gian bay để đánh giá tình hình và lựa chọn, hay là có
thể đợi một khối thermal đang đến để bay vào để giúp ta tránh
khỏi khó khăn này. Tất nhiên, những gì nêu trong lý thuyết có
thể không phải lúc nào cũng áp dụng được. Nếu bị rơi vào điều
kiện không khí hỗn loạn (turbulence), thì nên cẩn trọng bay ở
tốc độ cao hơn tốc độ nêu trong lý thuyết vì nó cho phép ta có
khả năng điều khiển tốt hơn.
Một trong số
tính năng tốt hơn của dù lượn kiểu mới là dây điều khiển nhóm A
được tách ra. Với các dù kiểu cũ thì các phi công nhỏ con thường
gặp phải khó khăn khi với đến từng dây dù của nhóm A, vì thế
không phải lúc nào cũng có thể sử dụng kỹ thuật thu giảm vòm dù.
Các nhà sản xuất dù lượn đời mới nhận thức rõ tầm quan trọng của
việc làm cụp vòm dù “tai nhỏ” hay “tai to” là một kỹ thuật để
thu giảm vòm dù để điều chỉnh và kiểm soát tuyến hạ cánh, và đã
làm cho việc điều khiển trở nên dễ dàng sử dụng hơn cho tất cả
các phi công. Mặc dù kéo cụp tai dù giúp ta có thể tinh chỉnh
tuyến hạ cánh, nhưng [tác giả] thấy là kỹ thuật này chỉ nên sử
dụng khi cần thiết, việc trang bị cho mình những kỹ năng bay
chuẩn xác sẽ làm cho việc tính toán tuyến tiếp cận hạ cánh của
ta trở nên dễ dàng hơn và an toàn hơn. Nếu ta đã quen với việc
thẳng hướng về điểm hạ cánh và trông đợi vào những gì tốt nhất
thì có lẽ ta rất cần phải học kỹ thuật tính toán tiếp cận để hạ
cánh.
Thật thú vị
là có một kỹ thuật đơn giản để tăng lực cản, do vậy đường lượn
sẽ dốc hơn và giảm bớt khoảng cách ta bay trên trời mà có lẽ
không được nhiều phi công sử dụng. Phương pháp đơn giản để tăng
tốc độ rơi đó là đứng thẳng người lên trong đai ngồi. Cách này
sẽ làm tăng diện tích cản gió, làm tăng lực cản và làm cho ta
rơi nhanh hơn. Điều này tạo ra thêm lợi thế từ việc phi công ở
tư thế đứng chuẩn bị hạ cánh, hay tư thế tiếp đất kiểu nhảy dù
nếu mọi việc không diễn ra như đã định.
Trong bài
tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét các phương pháp khác nhau để tinh
chỉnh kỹ thuật tiếp cận hạ cánh để ta có thể đáp đúng điểm mà ta
định hạ cánh, mỗi lần…
Xem tiếp