Thiết bị
Vario
Lê Hồng Quang dịch
Vario
là cách gọi tắt của Vario-Altimetre, vừa đo độ cao, vừa đo tốc
độ lên/xuống. Thiết bị này hiện nay tích
hợp nhiều chức năng, cung cấp tốc độ gió, toạ độ GPS,
nhiệt độ, đồng hồ bấm giây, hiển thị ngày giờ, lưu các thông tin
của 20 chuyến bay gần nhất (bao gồm thời điểm bay, độ dài chuyến
bay, độ cao tuyệt đối so với mực nước biển, độ cao tương đối từ
điểm cất cánh đến điểm hạ cánh, và tốc độ lên/xuống).
Giá tham khảo: FLYTEC 4020XL Professional
được rao bán trên eBay với giá 330 USD (5.200.000 VND)
Dựa vào áp suất khí quyển,
Altimetre cho biết độ cao tuyệt đối (so với mực nước biển) hay
độ cao tương đối (so với một độ cao khác). Tại bãi cất cánh, phi
công chỉnh độ cao tương đối về mức 0, việc này rất cần thiết nếu phi công
muốn quay lại hạ cánh tại bãi cất cánh (top landing).
Variometre cho biết tốc độ lên hay
xuống, tính theo đơn vị mét/giây, hiển thị trên màn hình và báo
bằng âm thanh. Đây là thông tin rất cần thiết cho phi công, vì
khi phi công bay xa khỏi núi hay bay qua một cơn giông, rất khó
cảm nhận là đang bay lên hay rơi xuống.
Chức năng đo độ cao (Altimetre)
Máy đo độ cao (Altimetre) thực
chất là một khí áp kế (Barometre) vì nó không trực tiếp đo độ
cao, mà chỉ đo áp suất. Độ cao tại một vị trí được đo nhờ áp
suất tại vị trí đó. Áp suất tại mực nước biển (cao độ 0) được
dùng làm mốc để tính độ cao tuyệt đối (theo các cách tính được
quốc tế thừa nhận).
Vì sao áp suất thay đổi theo độ
cao? Áp suất là một trọng lượng hay một lực tác động lên một mặt
phẳng. Như vậy mọi mặt phẳng trên bề mặt trái đất đều phải chịu
trọng lượng của cột không khí bên trên nó. Căn cứ trên một diện
tích nhất định, người ta tính được áp suất này và gọi đó là áp
suất khí quyển. Áp suất khí quyển giảm dần khi lên cao dần, vì
càng lên cao thì trọng lượng của cột không khí bên trên càng
nhỏ.
Trên thực tế thì không phải đơn
giản như vậy, vì còn nhiều yếu tố khác tác động tới áp suất khí
quyển. Ví dụ như áp suất thay đổi tuỳ theo nhiệt độ và tất nhiên
là tuỳ theo thời tiết. Tại một vị trí cho trước so với mực nước
biển (QNH), áp suất khí quyển thay đổi trong mức từ 950 đến
1050hPa tuỳ theo thời tiết. Trong một ngày với thời tiết ổn
định, các thay đổi về áp suất khí quyển dao động tới 1mbar,
tương đương với sai số về độ cao lên tới ±10m. Để giảm bớt sai
số này, các máy đo độ cao đều phải được hiệu chỉnh luôn luôn.
Khi điều kiện thời tiết thay đổi
nhanh, ví dụ như khi có gió lạnh bay qua, các thay đổi về áp
suất khí quyển trong một ngày dao động tới 5mbar, tương đương
với sai số về độ cao lên tới ±40m!
Để cân chỉnh máy đo độ cao, có thể
nhập dữ liệu về độ cao. Một cách cân chỉnh khác là nhập vào máy
thông số QNH (Altimeter Sub-scale setting to obtain elevation when on the ground, Áp suất quy về mực nước biển trung bình theo khí quyển chuẩn) tại thời điểm hiện tại.
Trong các môn thể thao bay tự do,
thống nhất được một độ cao 0 là rất quan trọng. Tức là làm sao
để ở một độ cao nhất định thì tất cả các máy đo độ cao đều cho
ra kết quả như nhau. Kết quả tuyệt đối này được gọi là QNH. Đó
là áp suất khí quyển hiện tại tính theo đơn vị hPa được tính so
với mực nước biển. QNH được đo nhiều lần trong ngày và được
thông báo trong các bản tin thời tiết. Cũng có thể hỏi tại các
sân bay.
Altimetre cho biết độ cao tuyệt
đối và độ cao tương đối, được ký hiệu là ALT1 và ALT2.
Độ cao tuyệt đối, tức là độ cao so
với mực nước biển. Nếu không biết độ cao của vị trí bạn đang
đứng, hãy nhập thông số QNH. Tuy nhiên cách làm này đưa lại kết
quả kém chính xác hơn là nhập thông số độ cao. Vì QNH được tính
với đơn vị mbar, tương đương với sai số là 8,53m, trong khi nếu
biết thông số độ cao thì sai số sẽ chỉ khoảng 1m.
Độ cao tương đối là độ chênh lệch
so với một độ cao khác. Thông số này có thể được hiệu chỉnh về 0
dễ dàng. Với phi công dù lượn thì thông tin về độ cao tương đối
quan trọng hơn nhiều so với thông tin về độ cao tuyệt đối.
Chức năng đo
tốc độ lên/xuống (Variometre)
Lấy dữ liệu liên tục từ Altimetre
và so sánh trong một khoảng thời gian nhất định bằng các thuật
toán, Variometre cung cấp thông
tin về tốc độ lên hay xuống của phi công. Tốc độ này được hiển
thị một cách trực quan trên màn hình nhờ các vạch. Mỗi vạch tương đương với thay đổi
tốc độ ±0,2m/giây theo chiều dọc. Toàn bộ các vạch đều kín tương đương thay đổi ±4m/giây.
Tốc độ này cũng được hiển thị bằng
số trên màn hình chính. Hiển thị số được cập nhật từng giây và cho ra tốc độ trung bình trong khoảng 0,5, 1 hay 1,5 giây gần nhất.
Vario có thời gian đáp ứng ngắn
hơn chưa chắc đã hiệu quả hơn. Ví dụ như khi điều kiện thời tiết
thay đổi đột ngột hay trong cơn giông, nên tăng thời gian đáp
ứng của vario, để giảm các tác động gây sai số của cơn giông.
Khi phi công mất độ cao quá nhanh,
vượt qua một giá trị cho trước (có thể điều chỉnh giá trị này
trên thiết bị), một chuỗi âm liên tục được kích hoạt. Khi âm thanh báo tỷ lệ rơi được kích hoạt, trên màn hình sẽ hiển thị
chữ SINK.
Nguồn:
http://www.flytec.fr