Huấn luyện
Các yếu tố vật lý trong dù
lượn (Phần cuối)
©
Stuart Caruk
Bùi
Thái Giang dịch
Nghệ thuật để lần nào cũng chạm trúng đích
[Tác giả bài
viết] đã có hàng nghìn giờ bay máy bay cánh cố định có động cơ
và không có động cơ, trình diễn, thực hành và dạy hạ cánh bắt
buộc của mọi loại máy bay. Một trong những ích lợi quan trọng là
nắm rõ cái gì hiệu quả cái gì không. Đối với phi công máy bay có
động cơ thì hạ cánh bắt buộc là khi động cơ bị hỏng và phi công
buộc phải chọn một điểm hạ cánh trong tầm lượn của máy bay. Phi
công dù lượn có lợi thế ngay từ đầu. Họ biết là họ phải hạ cánh
không có động cơ kể từ khi họ quyết định bay, và trong toàn bộ
chuyến bay (hoặc họ sẽ phải) tính toán cân nhắc các phương án hạ
cánh. Nhưng đừng có hiểu sai việc này theo nghĩa là lúc nào
chúng ta cũng phải chuẩn bị hạ cánh tiếp đất - nếu không thì ta
sẽ chẳng bao giờ thưởng thức được vẻ đẹp tĩnh lặng của việc bay
lượn không có động cơ.
Điều đó đơn
giản có nghĩa là trong mỗi chuyến bay ta luôn phải tính đến
trong đầu mình là có một chỗ an toàn để lượn đến. Điều này cũng
bao gồm cả việc cần phải cơ động bay đến khu vực hạ cánh còn dư
độ cao đủ để chuẩn bị vào tuyến hạ cánh an toàn. Khi còn độ cao
thì ta còn nhiều khả năng lựa chọn, nhưng vẫn phải chuẩn bị một
điểm hạ cánh trong đầu. Đăc biệt khi ta quyết định bay đường
dài, ta cần phải có một điểm hạ cánh trong tầm bay để khi ta bay
xa hơn thì vẫn có khả năng bay trở lại một cánh đồng ở phía sau
mình, và có lẽ là cần có cả một điểm hạ cánh ở phía trước hay
bên cạnh. Sau đó bỏ lại điểm hạ cánh ở phía sau mình và cánh
đồng phía trước trở thành điểm hạ cánh mới. Điểm cốt lõi là
chúng ta bay từ điểm hạ cánh này đến điểm hạ cánh kia theo hướng
bay dự kiến của mình. Trong khi quan sát mặt đất, nên giành một
chút thời gian để đánh giá tình hình gió mặt đất xem gió có mạnh
lên, hay chuyển hướng thổi theo hướng khác. Nhìn lên trời cao
quan sát các dấu hiệu có sự tích tụ và phát triển hay có thể cho
thấy là gió trên không sẽ mạnh lên, hoặc bầu trời sẽ quá tích
tụ. Chú ý quan sát cảnh vật xung quanh giúp ta giảm thiểu khả
năng bị ‘dính’ vào các tình huống thời tiết phức tạp.
Một số phi
công đơn giản là không cảm thấy phải lo lắng về chuyện tìm điểm
hạ cánh trong khi đang bay và chờ cho đến khi mất độ cao và buộc
phải hạ cánh trước khi chọn được một điểm hạ cánh. Thường thì
điều đó có nghĩa là phải cố làm những gì tốt nhất có thể trong
một tình huống tồi tệ và nguy cơ xảy ra chấn thương là cực kỳ
cao vì việc tiếp cận hạ cánh không được chuẩn bị tốt. Một số phi
công có vẻ khoái khi bay gần rặng cây và khi họ bất ngờ bị tụt
độ cao hoặc khi lực nâng mà họ trông đợi không thấy đâu cả và
kết quả là phải thực hành xử lý tình huống hạ cánh vào cây và
các kỹ năng tháo gỡ dù. Chúng ta có thể tăng mức độ an toàn
trong khi chơi dù lượn bằng cách luôn luôn để ý đến địa hình địa
vật xung quanh và có một chỗ an toàn để hạ cánh nếu mất lực nâng
hay điều kiện buộc ta phải nhanh chóng hạ cánh. Nếu tình cờ ta
thấy cái gì đó mà phi công khác có thể không nhìn thấy, ta hãy
nhanh chóng dùng bộ đàm thông báo cho người kia. “Một chút cẩn
thận phòng xa có thể giúp ta tránh được một vụ cứu hộ lớn”.
Có nhiều kỹ
thuật mà các phi công khác nhau sử dụng để chuẩn bị cho mình vào
khu vực hạ cánh nhưng một kỹ thuật mà đặc biệt thích hợp hầu như
với mọi trường hợp và phi công ở bất kỳ trình độ nào và bất kỳ
loại máy bay nào. Do dù lượn có tốc độ tiếp đất thấp và bán kính
vòng lượn hẹp hơn so với các loại thiết bị bay khác, cho nên
việc hạ cánh xuống một điểm nào đó trong mọi trường hợp là hết
sức dễ dàng. Bài viết này sẽ tập trung nhiều vào kỹ thuật so với
các bài trước nhưng nó sẽ cho phép ta sử dụng các kiến thức lý
thuyết thu được áp dụng vào trong thực tế thực hành.
Chúng ta biết
rằng có nhiều kỹ thuật tiếp cận để tiếp đất khác nhau và thực ra
mà nói cách ta chuẩn bị tiếp đất như thế nào thì ít quan trọng
hơn việc ta thường xuyên đều đặn chuẩn bị cho mình vào vị trí để
hạ cánh nhẹ nhàng. Có thể có trường hợp là cách tiếp cận để tiếp
đất cực kỳ không ổn định nhưng vẫn đạt được kết quả hạ cánh tốt,
tuy vậy, nói chung, tiếp cận để tiếp đất thật tốt sẽ chắc chắn
dẫn đến hạ cánh tốt một cách đều đặn. Không có mẹo gì đặc biệt
trong việc hạ cánh nhẹ nhàng trong mỗi lần. Đôi khi ngay cả khi
chúng ta tiếp cận để tiếp đất tốt nhất nhưng kết cục là gặp phải
gió đứt (wind shear) hay cơn gió bất ngờ, hoặc bất thình lình có
vật cản có thể làm cho việc tiếp đất là nặng hơn so với dự kiến.
Khi xảy ra như vậy, không nên tự đánh giá mình quá nặng nề. Nếu
tình huống đó đã trở thành hiện tượng bình thường thì bài này sẽ
giúp ta có kỹ năng cần thiết để cải thiện kỹ năng lập kế hoạch
của mình. Tất nhiên, là một phi công cẩn thận ta cần đứng thẳng
trên đai ngồi trong khoảng 15 m cuối cùng, một kỹ thuật nhằm
giúp ta giảm khả năng bị chấn thương khi mọi việc không diễn ra
theo cách đã dự tính.
Tất cả mọi
máy bay đều phải hạ cánh ngược hướng gió càng đúng hướng càng
tốt nhằm giảm tốc độ tiến lúc chuẩn bị tiếp đất. Do chúng ta bay
dù lượn với tốc độ thấp, gió có ảnh hưởng rất lớn so với các
loại máy bay khác, và không hiểu rõ hoặc đánh giá sai gió có thể
làm cho chúng ta rơi vào tình thế hết sức bất lợi. Ta cần liên
tục nắm rõ xem gió như thế nào trong khu vực đang bay, nơi chuẩn
bị hạ cánh, và ngay cả trong phạm vi vài cây số quanh vị trí
hiện tại của mình.
Một trong số
các dấu hiệu tốt nhất là khói, bụi thổi, cờ bay, túi gió và dây
gió; nhưng ta cũng nên biết là một số thứ có lẽ khó nhận ra hơn
nhưng có thể giúp chúng ta ít nhiều. Khi gió thổi cây và lá cây
là lý tưởng, vì nó có mặt dưới sáng bóng. Khi gió thổi vào cây
lá sẽ lật đi lật lại và ta có thể nhìn thấy mặt sáng của lá ở
phía cây có gió thổi, ngay cả khi ở rất cao. Nước có một dải
tĩnh lặng ở phía gió thổi tại đó nước không bị gió thổi. Kích
thước của dải này và chiều cao sóng hoặc có khi có vết gió giúp
đánh giá tốc độ gió. Chim nước thường ăn ở hướng đối diện hướng
gió, và cất cánh và hạ cánh ngược chiều gió, kể cả khi gió rất
nhẹ. Thuyền neo đậu trong hồ sẽ xoay và hướng về đầu gió (nhưng
một cái thuyền đã thả neo trên sông có thể xoay hướng theo dòng
chảy cho nên cẩn thận với loại này). Các con vật đứng trên cánh
đồng thường đứng đối diện hướng gió (hãy thử nghĩ xem, nếu ta
không tắm rửa phần đuôi liệu ta có muốn lúc nào cũng quay nó về
đầu gió không?). Nếu không có cái gì khác trên mặt đất có thể
giúp ta thì ta nên bay theo một hình vuông nhỏ. Nếu nhận biết là
có tí gió nào đó; thì trôi dạt ở đường bay có gió cạnh sẽ hiển
hiện rõ ràng, và thay đổi tốc độ bay trên mặt đất sẽ giúp ta xác
định được gió đến từ đâu.
Một số thứ
khác có thể hỗ trợ ta trong khi bay là hệ thống thông báo thời
tiết tự động hoặc trạm phát thông tin khí tượng và GPS. Một số
thiết bị GPS mới có thể tính tốc độ gió và hướng gió theo hướng
bay và đường bay trên mặt đất. Một điều cần chú ý là GPS cho
thông tin về tốc độ mặt đất (ground speed) thì phi công thường
cho là có giá trị dương. Nhưng vì thiết bị GPS cho biết là tốc
độ 13km/h không có nghĩa là ta đang bay về phía trước là 13km/h.
Rất có thể đơn giản là ta đang bay về phía sau, cho nên chú ý
mũi tên chỉ hướng bay để xem ta đang ở chỗ nào so với mặt đất
cũng là hết sức quan trọng. Nếu chẳng may ta đứng ở điểm hạ cánh
khi một phi công đang bay xuống để hạ cánh, và không có cái gì
có thể chỉ thị tốt hướng gió, hãy lấy chân đá tung bụi lên và
người ta phi công kia có thể đánh giá tình hình gió mặt đất. Hy
vọng là mọi người sẽ làm như vậy khi đến lượt ta hạ cánh.
Một điều quan
trọng là phải để ý đến gió trong toàn bộ khu vực đang bay. Ta có
thể bay ‘ridge soaring; hay ‘thermal’ ở một điểm bay là vùng núi
cao và dự định hạ cánh ở một thung lũng. Nếu ta không chú ý quan
sát, có khả năng gió trong thung lũng bất ngờ thay đổi, và gió
thổi mạnh ở điểm hạ cánh trong khi lại tương đối lặng khi ta
đang bay trên cao. Phát hiện sớm thay đổi là hết sức quan trọng
trong trường hợp này vì còn độ cao thì ta còn có nhiều phương án
để chọn. Nếu không nhận ra những thay đổi này cho đến khi xuống
quá thấp và đang chuẩn bị tiếp cận để tiếp đất ta đã mất một vài
phương án tốt để lựa chọn. Cũng tương tự như vậy khi nhìn xung
quanh khu vực bay ta có thể thấy có đám mây tích (Cumulous) đang
đùn lên ở khoảng xa và thấy có khả năng tạo ra gió cơn có thể di
chuyển đến khu vực ta đang bay. Thật sự hiếm khi thấy gió “bỗng
nhiên thổi mạnh”, và ta thường nghe thấy một số phi công nói về
sự kỳ bí này là gió bỗng nhiên mạnh lên … Chẳng có gì là kỳ bí ở
đây cả; đơn giản là chúng ta không chú ý đến các dấu hiệu của
những thay đổi ở xung quanh chúng ta mà thôi.
Tốc độ bay,
độ cao, và một điểm để bay đến là những thứ thân thuộc đối với
phi công dù lượn, nhưng người phi công có thể bỏ phí mất một vài
điểm hạ cánh có tiềm năng bằng cách bay không để ý gì đến xung
quanh ở tốc độ cao nhất với suy nghĩ là sẽ đến được điểm đích để
hạ cánh. Có một số tốc độ bay có thể cải thiện tầm hạ cánh với
các phương án khác nhau, đặc biệt là khi trời có gió lớn. Hy
vọng vào mọi việc sẽ tốt đẹp không bao giờ là một ý tưởng tốt,
và là phi công ta phải tối tìm cách tối ưu hóa khoảng đất mà ta
có thể bay đến ở một độ cao nào đó. Nó sẽ giúp ta có thêm nhiều
lựa chọn.
Để đạt được
tính năng tối đa của bất kỳ máy bay nào, có một vài tốc độ bay
ta cần phải biết. Một tốc độ hiển nhiên đó là tốc độ khi thất
tốc, là tốc độ nhỏ nhất mà cánh bay còn bay trước khi cho góc
lượn tăng lên rất lớn. Hầu hết máy bay cánh cố định có một số
thiết bị cảnh báo phi công về khả năng thất tốc. Phi công sẽ
được cảnh báo bằng âm thanh và hình ảnh, và trong một số trường
hợp có thể làm rung cần lái trong tay người phi công và đẩy cần
lái về phía trước nếu phi công không giảm góc tấn. Còn đối với
phi công dù lượn thì chỉ có mỗi cảnh báo là cảm giác về áp lực
lên cánh dù, và kiến thức về vị trí dây lái ở khoảng nào thì có
thể bị thất tốc. Chúng ta có thể thấy từ kinh nghiệm trong nhiều
chuyến bay khi ở giai đoạn phanh (flare) để hạ cánh, hoặc có lẽ
trong chuyến bay của các chương trình tập luyện cơ động . Những
gì ta có thể đạt được là rất ít khi bay ở tốc độ thấp hơn tốc độ
rơi nhỏ nhất, hoặc bay trên trời với dây lái kéo tối đa (phanh
hoàn toàn). Đường cong cực cho thấy là tất cả những gì ta làm là
tăng tốc độ rơi của dù, và đặt chúng ta vào khả năng bị thất tốc
không mong muốn.
Hai tốc độ
quan trọng khác cần biết nữa là tốc độ bay để kéo dài khả năng
bay sao cho lâu nhất (có khả năng bay ở trên trời trong thời
gian dài nhất với độ cao nào đó), và tầm xa nhất (có khả năng
bay đến khoảng cách lớn nhất tại một độ cao nào đó). Hầu hết phi
công máy bay cánh cố định đều trải qua phần giới thiệu về cách
tìm các tốc độ này như thế nào, và chúng cũng có thể áp dụng
thiết thực cho chúng ta là phi công dù lượn. Bay lâu nhất là tốc
độ mà chúng ta muốn bay để tối đa hóa thời gian bay khi lực nâng
là zê rô. Là phi công dù lượn chúng ta có lẽ quen thuộc hơn với
khái niệm tốc độ rơi nhỏ nhất, còn các tốc độ cũng là tương tự.
Nhìn vào đường cong cực đã nêu trong bài viết phần 1 và 2, ta có
thể thấy là tốc độ rơi nhỏ nhất đạt được tại một điểm trên đường
cong cực khi ta có lực cản nhỏ nhất trong khi bay. Bay với tốc
độ rơi nhỏ nhất tức là ở trên không trung với thời gian dài nhất
tại một độ cao nào đó, với giả thiết là chúng ta không có nhu
cầu phải vội bay đến một điểm nào đó. Nếu như không có lực nâng
nhưng lại có gió lớn, ta có thể tăng tầm bay bằng cách hướng
theo hướng gió và bay ở tốc độ này. Khi đó ta có thể tối đa hoá
thời gian bay của mình bằng cách bay theo chiều gió và cho phép
ta đạt được tầm bay lớn nhất. Nếu ta cần bay ngược gió, giảm tốc
độ xuống đến tốc độ này có nghĩa là ta đã bị thiệt do mất khoảng
cách có thể bay được do bay ngược gió trong chừng đó thời gian.
Để tiến ngược gió ta cần bay ở tốc độ cho phép ta có khả năng
tiến nhập tốt nhất mà ngược lại không làm tăng tốc độ rơi.
Tầm bay xa
nhất có được tại điểm trên đường cong cực tiếp tuyến với đường
thẳng đi qua gốc tọa độ. Nếu ta có được đồ thị đường cong cực
của chiếc dù của mình thì có thể xác định được tốc độ này dựa
trên đồ thị. Trong hình 1 là đường cong cực của một dù lượn điển
hình ta có thể xác định tốc độ để bay với tầm bay xa nhất trong
một ngày không có gió bằng cách kẻ một đường thẳng từ điểm gốc
tọa độ đến điểm tiếp tuyến với đường cong cực (điểm A trên đường
cong trong hình 1) từ đó chiếu thẳng xuống trục tốc độ bay để
xác định tốc độ mà ta cần phải bay. Nếu muốn bay với khoảng cách
lớn nhất khi tốc độ gió thổi đến là 10-MPH (16 km/h), ta cần kẻ
một đường từ điểm 10-MPH trên trục tốc độ bay sao cho tiếp tuyến
với đường cong cực để xác định tốc độ bay tối ưu, và tương ứng
là tốc độ rơi (điểm B trên đường cong). Hãy chú ý điểm C xem ta
phải bay nhanh đến mức nào khi tốc độ gió tăng lên nữa.
Hình 1: Đường
cong cực và tốc độ bay để đạt tầm bay xa nhất
Nếu tốc độ
gió thổi đến gần bằng tốc độ tối đa của dù lượn thì hiển nhiên
là ta cần bay càng nhanh càng tốt trong khi hầu như không tiến
được chút nào theo hướng ngược gió. Tất nhiên, điều này trước
hết có nghĩa là ta đã chủ quan khi đánh giá tình hình khi cất
cánh hoặc ta đã bỏ qua không quan sát và nhận thấy điều kiện đã
thay đổi khi đang mải mê bay lượn. Hy vọng rằng gió sẽ nhẹ hơn
và giảm bớt tốc độ khi ta tụt xuống thấp hơn và tốc độ gió bị
chậm lại do ma sát bề mặt cho phép ta có thêm vài phương án để
lựa chọn điểm hạ cánh. Đôi khi ta phải chấp nhận thực tại và sử
dụng thanh tăng tốc nhằm tiến về phía trước đôi chút. Sử dụng
thanh tăng tốc để tiến ngược gió là tốt với điều kiện là độ cao
còn đủ. Khi gần mặt đất, cần cân nhắc khả năng rủi ro tăng lên
do mép trước cánh dù bị gập xuống [mép trước cánh dù bị xẹp] có
đáng so với việc tăng tốc độ được đôi chút.
Trong trường
hợp bay xuôi gió; hãy kẻ một đường tiếp tuyến với đường cong từ
phía bên trái gốc tọa độ trên trục tốc độ bay từ điểm có giá trị
bằng tốc độ gió, trừ khi ta không muốn bay chậm hơn tốc độ của
tốc độ rơi nhỏ nhất để đạt được kết quả tối ưu (khi đó sẽ tăng
tốc độ rơi vì không cải thiện thêm được tí nào về tính năng).
Nếu không có
đường cong cực của chiếc dù của mình và ta muốn biết áng chừng
về tốc độ và vị trí dây lái để có thể bay được với tầm bay xa
nhất, ta có thể xác định được trong quá trình bay bằng cách thực
hiện thử nghiệm đơn giản với vario và đầu đo tốc độ. Trong một
ngày đẹp trời, và độ cao đủ lớn, để dù lượn bay ở tốc độ rơi nhỏ
nhất. (Nếu cần thiết thì có thể xem lại bài phần 1 và 2). Chú ý
tốc độ rơi của ta. Việc làm tiếp theo là tăng tốc độ bay đều
từng bước, và chú ý việc tăng tương ứng đối với tốc độ rơi. Khi
tăng tốc độ bay sẽ làm tốc độ rơi ngày càng nhanh cho đến điểm
mà sẽ tăng vọt lên, cho đến điểm sẽ tăng theo hàm mũ. Bay chậm
đi đôi chút sẽ đưa ta đến tốc độ để bay với tầm bay xa nhất
trong không trung.
Thực tế là,
trong chúng ta chỉ một số đã từng bay chính xác ở tốc độ với tốc
độ rơi nhỏ nhất hoặc lượn tốt nhất. Việc hiểu rõ cách làm thế
nào để có thể tăng tính năng bay của dù là nội dung hết sức quan
trọng để ta bắt đầu. Giờ thì ta đã biết cách làm thế nào để có
thể bay được với khoảng cách lớn nhất trong mọi điều kiện gió
khác nhau, ta có thể mở rộng khả năng lựa chọn điểm có thể bay
đến, cho phép ta có được nhiều phương án hơn. Biết là có thể bay
đến được một điểm cụ thể trong thực tế hoặc vượt qua vật cản lại
là một vấn đề tiếp theo. Nếu đang phải hình dung xem liệu ta có
vượt qua được vật cản trên đường bay, ví du một vách núi chẳng
hạn. Hãy nhìn xa hơn đôi chút để xem có giúp ta được gì để vượt
qua vật cản đó hay không. Nếu thấy có nhiều cảnh vật xuất hiện
đằng sau vách núi, ta có thể vượt qua được, nhưng nếu cảnh vật
biến mất dần, ta không thể bay qua được. Nếu cảnh vật vẫn nguyên
xi như vậy thì ta có thể sẽ va vào núi. Tất nhiên ta cần sử dụng
kinh nghiệm và cảm nhận để quyết định xem có thể có thêm các vấn
đề nào khác cần tránh như rotors, venturi, hay chỉ đơn giản là
hỗn loạn về cơ học.
Giả sử phải
quyết định xem có vượt qua được một vật cản trên tuyến tiếp cận
để tiếp đất, ví dụ là đường dây cao thế 400 KV, ta áp dụng cùng
một nguyên tắc như được mô tả trong hình 2a 2c. Một điều quan
trọng cần nhớ là độ cao là yếu tố thân thuộc. Phi công giỏi
thường xuyên đánh giá điều kiện khi bay cũng như cân nhắc các
phương án sẵn có. Nếu có thể quyết định sớm thì không chắc ta đã
phải vượt qua chướng ngại vật trên tuyến tiếp cận để tiếp đất,
nó cho phép ta có thời gian để lựa chọn các phương án khác. Kỳ
vọng là mọi thứ sẽ tốt đẹp có nghĩa là hoặc là đâm vào vật cản
ta đang ‘hy vọng’ sẽ vượt qua, hoặc buộc phải cơ động hết sức
gắt ở độ cao thấp nhằm tránh nó. (Chú ý: Trong trường hợp ta rơi
vào vị trí như trong Hình 2c, bổ nhào xuống dưới đường dây điện
là một ý tưởng hết sức tồi. Kéo tai để hạ cánh trước, hoặc vòng
lại và hạ cánh với gió cạnh thì tốt hơn so với nguy cơ tiếp vào
đường dây điện cao thế).
Hình 2a Liệu ta có vượt qua được chăng?
Hình 2b Nếu thấy có thêm nhiều cảnh vật xuất hiện ở bên kia
chướng ngại vật thì chắc chắn ta sẽ vượt qua được
Hình 2c Nếu thấy các cảnh vật ở bên kia chướng ngại vật cứ biến
mất dần đi thì ta nên có phương án khác
Nào, giờ thì
hãy xem xét trường hợp mọi việc đơn giản nhất và coi rằng ta có
thừa độ cao và quá nhiều lựa chọn điểm hạ cánh và muốn thực hiện
một kỹ thuật để giúp ta vào vị trí để hạ cánh như trong sách
giáo khoa với mỗi lần hạ cánh. Trước hết hãy quên đi việc ganh
đua với những phi công thực tài năng (hoặc hơi bị khùng ... tùy
ta nghĩ) có thể thực hiện động tác khoan thẳng xuống điểm hạ
cánh. Hầu hết chúng ta không thể làm được như thế. Tương tự, ta
cũng phải quên đi việc cố gắng bắt chước kiểu bay của một số phi
công thực hiện động tác nghiêng cánh nghẹt thở đến sát mặt đất,
kết thúc bằng một cú bổ nhào khoan xoáy đầy ấn tượng rồi lướt
sát mặt đất trên một quãng dài và tiếp đất một cách duyên dáng
mà không hề phải bước lấy một bước chân. Có vài người trong số
chúng ta có kỹ năng hay may mắn để làm được điều đó đều đặn.
Thay vào đó, ta hãy thực hiện một kỹ thuật rất phổ dụng là là kỹ
thuật tiếp cận để tiếp đất đã được khẳng định là hết sức tốt để
giúp ta vào vị trí ổn định thông thường để tiếp đất và hạ cánh.
Kỹ thuật này được mô tả trong Hình 3.
Hình 3 Cơ
động để vào vị trí ổn định để vào tuyến tiếp cận hạ cánh
Chọn một bãi
đất trống để hạ cánh, bay hướng về điểm hạ cánh theo chiều gió.
Điều chỉnh tốc độ cho thích hợp để ta có thể bay đến khu vực hạ
cánh với độ cao còn dư càng nhiều càng tốt. Ta cần xác định 2
điểm mốc chính (điểm K trong Hình 3), mỗi điểm ở một bên cánh
đồng và ở góc 45 độ so với điểm hạ cánh. Mục tiêu là nhằm thẳng
hướng điểm mốc chính K, tại đó ta cơ động để mất dần độ cao
trước khi vào tuyến cuối cùng để hạ cánh (đường bay màu xanh lá
cây trong Hình 3). Nếu thấy có vẻ như hơi bị thấp khi đang bay
đến điểm mốc K, cắt góc sớm và hướng vào khu vực hạ cánh (đường
cong màu vàng từ phía trái trong Hình 3). Nếu bay đến điểm K mà
độ cao còn hơn cao, bay rộng ra một chút trước khi vòng vào
tuyến cuối cùng để hạ cánh như vậy ta sẽ mất thêm một chút độ
cao đi trước khi bay vào tuyến cuối (đường bay màu tím).Nếu độ
cao còn rất cao, bay rộng ra và hướng về phía bãi đất từ phía
bên kia và bay vào qua điểm K ở phía bên đó (giả sử ta bay vào
bãi hạ cánh ở điểm K bên phải và độ cao còn cao, khi đó ta phải
bay theo tuyến bay màu đỏ như trong Hình 3 và tiến hành tiếp cận
để tiếp đất như đã nói ở trên).
Khi bay quay
lại điểm K, ta phải quyết định xem sẽ bay rộng ra một chút hay
cắt góc để vào đường cuối cùng, hoặc bay sang điểm K ở phía bên
kia (theo đường bay màu xám nhạt), hoặc lặp lại đường bay hình
số 8 với số lần cần thiết để đưa ta vào vị trí để chuẩn bị vòng
vào tuyến tiếp cận cuối cùng để chuẩn bị tiếp đất. Nếu ta bay
qua khối khí nóng và bốc lên, hãy giữ nguyên tuyến bay. Nếu ta
bay lên, tốt thôi, chừng nào ta vẫn còn giữ nguyên đường bay ta
có thể dễ dàng cơ động để chuẩn bị cho việc hạ cánh bất kỳ lúc
nào, và nếu đó là một khối khí nóng tốt thì ta lại có thể bay
lên đến đáy mây và tiếp tục chuyến bay trong khi tìm khu vực hạ
cánh thích hợp khác. Nếu bị tụt độ cao, ta có thể luôn ở vị trí
để quay thẳng về cánh đồng để hạ cánh một cách an toàn.
Hãy nhớ sử
dụng lợi thế của gió một cách tốt nhất và điều chỉnh góc bay
ngang để có thể bay một đường bay phù hợp với hình số 8 của mình
để bay quanh các điểm K. Nhiều phi công hay làm hỏng việc tiếp
cận để hạ cánh bằng cách thực hiện một trong 3 động tác như sau:
thứ nhất và nguy hiểm nhất là thấy độ cao còn hơi cao trong điều
kiện thời tiết gió lớn và cố gắng quay 360 độ vào giai đoạn cuối
cùng. Khi quay, gió thổi dù dịch khỏi cánh đồng và khi hoàn
thành động tác quay thì không còn đủ độ cao để bay về điểm hạ
cánh nữa, hoặc trong khi tiến hành động tác quay thì bỗng nhận
ra là đã ước tính sai và cố gắng bù lại bằng cách nghiêng mạnh
hơn và kết quả là bị thất tốc và dù khoan xoáy ở độ cao quá thấp
để có thể khắc phục. Quy tắc đơn giản là ĐỪNG BAO GIỜ QUAY KHỎI
CÁNH ĐỒNG, và điều này sẽ không bao giờ gây rắc rối cho ta. Vấn
đề nữa nảy sinh trong trường hợp gió lớn và phi công không điều
chỉnh hướng bay để bù gió (tạo thành góc so với hướng gió) khi
đang crabbing [bay ngang] khi bay số 8 và để mình bị đẩy trôi
tương đối xa về hướng cuối gió. Vấn đề cuối cùng là khi phi công
không thực sự chọn điểm K để bay qua lại, chỉ tính bay theo
đường zích zắc cho đến tuyến tiếp cận để tiếp đất. Thường bắt
đầu bằng việc quay tí chút rồi sau đó nếu gặp gió nâng trên
đường bay đến khu vực hạ cánh thì lại thực hiện động tác quay
ngày càng lớn khi khoảng cách đến bãi hạ cánh mỗi lúc một gần
hơn và ở vào vị trí quá cao để có thể chuẩn bị tiếp cận để tiếp
đất như bình thường. “Nếu ta thất bại trong việc chuẩn bị tiếp
đất thì ta đã chuẩn bị sẵn cho sự thất bại”, vì thế sẽ không có
gì là ngạc nhiên nếu ta hạ cánh kém hơn bình thường. Hãy chuẩn
bị để tiếp đất, chọn điểm mốc chính K, và bay theo tuyến để đưa
ta vào vị trí chuẩn bị để vòng vào tuyến tiếp cận cuối cùng để
tiếp đất và hạ cánh nhẹ nhàng.
Trong một số
trường hợp do vật cản nằm ngay trên tuyến tiếp cận để tiếp đất
hoặc hạn chế tiếp cận để tiếp đất (tại đó ta phải ở lại bên này
cánh đồng và chỉ cho phép các phi công khác tiếp cận để tiếp đất
ở phía bên kia) ta cần thay đổi vị trí điểm K để có 1 điểm là ở
vị trí 45 độ như bình thường và điểm K còn lại gần về phía tuyến
tiếp cận cuối cùng. Nếu có nguy hiểm không thể tránh khỏi ở đầu
tuyến tiếp cận để tiếp đất, ví dụ đường dây cao thế phải vượt
qua; Ta phải tính các điểm mốc K sao cho nó hầu như ở trên đường
dây cao thế hoặc bên này hay bên kia cánh đồng. Như vậy ta luôn
ở vị trí để có thể quay vào điểm hạ cánh nếu thấy gió mạnh lên
hoặc ta bị tụt độ cao khi đang giảm dần độ cao [do có sự khác
biệt tốc độ và hướng gió giữa hai tầng gió - shear layer].
Một cách khác
là có thể tưởng tượng là có một cửa sổ đặt ở trên phần tiếp cận
để tiếp đất của điểm hạ cánh mà ta cần bay qua để chuẩn bị tiếp
cận để tiếp đất. Ta cũng có thể xác định một khu đất nhỏ cỡ con
tem ở khu vực điểm hạ cánh trong MỖI MỘT LẦN hạ cánh khoảng 1/3
tuyến đường đến điểm hạ cánh mà ta định tiếp đất. Cách này giúp
ta có cái gì đó có thể nhằm tới, và nếu ta trượt điểm này độ vài
mét thi fcũng chẳng ai biết hay quan tâm, nhưng về mặt tâm lý nó
giúp ta đánh giá những gì cần phải rút kinh nghiệm để đạt tiến
bộ trong lần hạ cánh tiếp theo. Rất nhiều phi công chỉ muốn chọn
một dải hạ cánh và chỉnh tuyến để bay theo đúng dải hạ cánh này,
tiếp đất bất cứ chỗ nào trên dải này. Người ta thường nói “Nếu
không nhằm vào cái gì cả thì chắc chắn ta sẽ chẹt vào hòn gạch ở
giữa đường” và ta nên chọn cách để có thể kiểm soát được đôi
chút tình huống khi hạ cánh. Khi ta buộc phải cơ động trong một
khu vực hạ cánh chật hẹp, thì cũng nên dùng chính kỹ thuật tiếp
cận để tiếp đất này nhưng phải tính để bay vào ở độ cao hơi lớn
một chút, và kéo tai to để mất độ cao một khi đã vào được khu
vực hạ cánh. Cách này đảm bảo là ta không bị rớt trước điểm hạ
cánh và nếu có bong bóng thermal nổi lên ở đoạn ngắn cuối cùng
thì nó cũng ít có tác động đến việc chuẩn bị tiếp cận để tiếp
đất của ta. Hãy chuẩn bị mọi phương án tiếp cận để tiếp đất và
thực hành bay cứ như là cuộc sống của ta phải phụ thuộc vào nó.
Cũng có thể là một ngày nào đó, nhưng nếu ta chịu khó bỏ ra chút
ít thời giờ và sức lực để thực hành kỹ thuật này thì ta sẽ có
thể đặt mình vào vị trí để bay đến điểm để có thể hạ cánh an
toàn ở bất kỳ đâu.
Chúc cho mặt
trời chứa chan ánh nắng và thermal là đầy ắp và ngọt ngào.