Huấn luyện
Các yếu tố vật lý trong dù
lượn (Phần 1)
©
Stuart Caruk
Bùi
Thái Giang dịch
Vì sao chúng ta lại bay như cách chúng ta hiện đang bay
Gần đây đã có
rất nhiều thảo luận về những nguy hiểm liên quan đến dù lượn cấp
cao hơn, bay nhanh hơn. Nó đặt ra vấn đề phải chăng chúng ta đã
đẩy quá xa trong nỗ lực nâng cao hơn nữa tính năng biểu diễn của
dù. Trong những cuộc thi đỉnh cao của các phi công giàu kinh
nghiệm đã có một số lượng cao khác thường phải mở dù dự bị khi
sử dụng dù DHV 3.
Gần đây hơn,
có xu hướng ngày càng nhiều phi công chuyển sang sử dụng vòm dù
DHV 2 hoặc 1-2. Nhiều phi công cho biết họ muốn có khả năng kiểm
soát một cái vòm dù cấp trung bình hơn nhiều so với những gì mà
họ có thể đạt được về tính năng. Nhiều phi công gần đây đã
chuyển từ các dù lượn cấp cao cũ sang các vòm dù DHV 1-2 hoặc 2
và nhận thấy là mất mát đôi chút về tính năng nhưng dễ hơn nhiều
trong việc giữ vòm dù ở trên đầu cũng như dựng vòm dù.
Nhiều vòm dù
mới cấp DHV 1-2 có tính năng thậm chí còn cao hơn các vòm dù cấp
trung trước đây, cũng chỉ mới vài năm gần đây thôi. Bởi vì đã có
những cải tiến về tính năng đặc biệt nên các vòm dù này sẽ phải
bay khác và đòi hỏi phi công phải dự liệu trước các chuyển động
của vòm dù. Một điều dễ nhận thấy khi chơi dù lượn là nhiều phi
công thiếu những hiểu biết cơ bản về lý thuyết bay. Khá nhiều
phi công coi các thông tin này là hiển nhiên mà không tìm hiểu
xem nguồn gốc, một thiếu sót hết sức nghiêm trọng khi xét đến
các rủi ro liên quan có thể xảy ra. Không có gì phức tạp về mặt
vật lý học của quá trình bay, và qua loạt bài viết này tác giả
muốn nâng cao kiến thức và củng cố quy trình ra quyết định và
cung cấp cho phi công kiến thức để bay tốt hơn và an toàn hơn.
Nếu chúng ta đang bay một vòm dù cũ hơn và cân nhắc mua một vòm
dù mới hơn, hoặc nếu đã lên đến trình độ biểu diễn cao hơn thì
loạt bài này chắc chắn sẽ giúp chúng ta thực sự sử dụng được đầy
đủ tiềm năng của cánh dù lượn của mình.
Để đánh giá
tính năng của bất kỳ cái dù nào chúng ta cần hiểu rõ các yếu tố
tác động đến lực nâng và cản, tỷ lệ dài-rộng (Aspect Ratio -- Tỷ
số giữa chiều dài và chiều rộng của cánh dù hoặc tỷ lệ tương
quan = [span -- sải cánh]mũ 2/area -- diện tích), đường cong cực
(polar curve) của vòm dù. Để làm rõ xem các yếu tố trên tác động
thế nào đến tính năng của dù chúng ta cần xem xét một số các
khái niệm cơ bản.
Lực nâng là
yếu tố cực kỳ quan trọng giúp ta bay lên được. Vì mục đích thảo
luận ở đây chúng ta sẽ coi lực nâng là yếu tố khí động đỡ trọng
lượng của chúng ta trong khi bay. Trong bài tiếp theo ta sẽ thảo
luận cách điều khiển dù bay của mình như thế nào để tận dụng tối
đa những lợi thế của cái cánh bay. Còn hiện tại ta chỉ cần xem
xét một số vấn đề đơn giản. Với hầu hết các cánh bay đang được
sử dụng nói chung hiện nay, có thể thấy rằng về cơ bản chúng có
mặt dưới phẳng và mặt trên cong. Kể từ chuyến bay đầu tiên điều
mà ta thường được nghe nói là cánh tạo ra lực nâng bởi vì dòng
khí thổi vào cánh bị tách khi chạm mép trước vòm dù, một ít
không khí chảy lên trên cánh và phần kia chảy dưới cánh rồi tái
hợp khi chạm mép sau vòm dù. Do không khí chuyển động ở trên
cánh với quãng đường dài hơn dẫn đến áp suất giảm ở mặt trên của
cánh. Sự khác biệt về áp suất làm cho cánh bị hút lên và do vậy
được gọi là lực nâng. Một số chúng ta có thể được nghe là cánh
làm đổi hướng không khí xuống phía dưới giống như cách trong
lướt ván để lướt được trên mặt nước, và đây là cách mà lực nâng
được tạo ra. Thực ra cả hai cách nói trên đều đúng, nhưng đa
phần lực nâng được tạo ra là do có sự khác nhau về áp suất giữa
hai mặt trên và dưới của cánh.
Muốn kiểm
chứng ư? Hãy thực hiện một thí nghiệm đơn giản. Lấy một tờ giấy
cứng và đặt nằm ngang trên mặt tấm kính. Đặt một quyển sách ở
trên tờ giấy gần nhưng không chạm vào tờ giấy. Nhấc nhanh quyển
sách. Điều gì sẽ xảy ra? Tờ giấy bị nâng lên theo quyển sách.
Tại sao? Nhấc quyển sách lên sẽ làm giảm áp suất ở phía trên tở
giấy, và tờ giấy bị nâng lên vào chỗ áp suất thấp hơn giống như
ta được nâng lên khi bay.
Lực nâng là
tốt, lực cản là xấu, nhưng chúng ta lại cần cả hai để bay được.
Bằng cách học để vận dụng tổng lực cản trên cánh bay, chúng ta
có thể cải thiện đáng kể tính năng khi bay. Về cơ bản có 2 loại
lực cản đối với dù lượn trong khi bay:
Cản hình học
hay ngoại biên: là lực cản xuất hiện khi chuyển động hình dáng
cơ bản của cánh, các đường và phi công trong không khí. Rất dễ
để đưa ra ví dụ về lực cản hình học. Cho xe chạy trên đường
nhưng mở cửa sổ, và chìa tay thẳng đứng ra ngoài cửa sổ. Nếu đi
chậm, thì có thể giữ tay ở một chỗ dễ dàng . Khi tăng dần tốc độ
ta sẽ thấy ngày càng khó để giữ tay khỏi bị thổi về phía sau vì
lực cản ngày càng tăng. Xoay tay nằm ngang ra theo hướng xe chạy
sẽ làm giảm đáng kể lực cản và do vậy sẽ dễ dàng giữ tay ở một
chỗ. Chú ý* Một điều hiển nhiên là chớ nên thử như thế khi xe
chạy nhanh. Một người cũng là phi công đã thử làm như thế khi
đang bay bằng cách mở ô cửa nhỏ trên [buồng lái] máy bay thể
thao trong khi đang bay ở tốc độ 160 MPH (257.5 km/h). Kết quả
là anh này bị gẫy 3 ngón tay khi bị gió dập tay vào cạnh sau của
ô cửa này!
Nhìn vào hình
1, ta có thể thấy là không có lực cản khi tốc độ không khí là 0,
và lực cản sẽ tăng theo cấp hàm mũ khi tăng tốc độ không khí.
Theo lý thuyết, lực cản tăng bằng bình phương tốc độ. Điều đó có
nghĩa là nếu ta đi nhanh gấp đôi, lực cản sẽ tăng lên 4 lần. Với
máy bay thông thường, lực cản cao hơn rất nhiều so với dù lượn
do có tốc độ cao hơn. Điều đó giải thích vì sao máy bay phải bay
trên một quãng đường dài để thu càng và nói chung chế tạo máy
bay càng nhẵn càng tốt. Do dù lượn bay với tốc độ thấp hơn nên
ích lợi từ việc tạo hình khí động [để giảm sức cản] là không
hiệu quả như đối với máy bay, nhưng việc giảm lực cản của cánh
bay và phi công bay trong không khí chắc chắn sẽ có tác dụng
tích cực. Ta có thể quan sát thấy điều này trong các cuộc thi,
các phi công thường mặc đồ bay bó sát và trơn láng, ngồi với tư
thế ngả người về sau, sử dụng mũ bay hình giọt nước, sử dụng dây
siêu nhỏ (microline) để kết nối phi công với vòm dù.
Cản cảm ứng:
là tương đối khó lượng hóa hơn một chút, nhưng nó được tạo ra
như là sản phẩm phụ của việc tạo lực nâng. Chúng ta đều biết là
áp suất cao hơn ở mặt dưới cánh và áp suất thấp hơn ở mặt trên
cánh. Chúng ta cũng biết là sự khác biệt về áp suất cùng với
việc làm lệch hướng dòng khí tạo ra lực nâng giúp ta bay được.
Chúng ta nói chung không quan tâm nhiều đến việc những khác biệt
về áp suất như vậy tác động lên chuyển động của không khí trên
toàn cánh, nhưng chuyển động này lại cực kỳ quan trọng vì bất kỳ
sự hòa trộn nào cũng đều làm tăng cản cảm ứng tạo bởi cánh và
thậm chí triệt tiêu lực nâng quanh các đầu mút cánh.
Nếu ta cộng
lại tất cả áp suất trên cánh, sẽ thấy là áp suất là cao nhất ở
giữa của mặt dưới cánh và thấp nhất là ở giữa của mặt trên cánh.
Dòng khí chuyển động ở cánh bị làm lệch hướng khỏi điểm có áp
suất cao ở dưới cánh và về phía áp suất thấp trên mặt cánh. Điều
đó làm cho dòng khí chuyển động qua cánh dù lượn bị lệch hướng
theo hướng ra ngoài khỏi chỗ áp suất cao hơn ở dưới cánh và
hướng vào trong ở chỗ áp suất thấp hơn ở trên mặt cánh.
Hình 1: Đường
cong lực cản
Khi không khí
rời khỏi mép sau cánh sẽ tạo thành xoáy vì có sự dịch chuyển
trên toàn cánh về hướng của không khí. Khối khí xoáy dần tạo
thành hai dòng xoáy đằng sau cánh chuyển động ngược chiều kim
đồng hồ ở mép phải còn theo chiều kim đồng hồ ở mép trái khi
nhìn từ phía sau cánh. Khối khí xoáy này là nguyên nhân gây ra
lực cản liên quan đến lực nâng được tạo ra. Nó sẽ hút cánh về
phía sau nhằm lấp khoảng trống được tạo ra giống như là có ai đó
bám giữ sau xe lúc chuẩn bị vượt đèn giao thông. Hiệu ứng này
được mô tả trong Hình 2.
Các cột khí
xoáy này thực ra là các lốc xoáy nhỏ chuyển động theo chiều
ngang và nên được hiểu theo đúng nghĩa này. Vì những lý do mà
chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ dưới đây, cánh tải nặng, bay ở góc tấn
lớn có thể tạo ra những rối loạn trong không khí (*). Nếu muốn
thấy một hình ảnh rõ ràng ta có thể đến bất cứ một sân bay nào
khi trời hơi mưa hoặc sương mù để quan sát các dòng lốc xoáy tạo
ra sau đầu mút cánh các máy bay. Nhiều máy bay hạng nhẹ đã bị
lật nhào hoặc đập xuống đất trong quá trình cất hạ cánh đằng sau
máy bay hạng nặng hơn do gặp phải rối loạn không khí. Nếu ta bay
theo sau một dù lượn khác, đặc biệt là tải nặng và chuyển động
chậm; có nhiều khả năng sẽ gặp phải như nhẹ thì một chút gió va
đập còn nặng thì xẹp hoàn toàn vòm dù, tùy theo cách ta bay vào
hay cắt qua.
Hình 2:
Chuyển động của không khí trên toàn bộ cánh
Cản cảm ứng
tạo ra do chuyển động của cánh trong không khí có liên quan trực
tiếp đến tỷ lệ dài-rộng của cánh. Tỷ lệ dài rộng của cánh là tỷ
số của sải cánh trung bình chia cho khổ cánh trung bình. Nhìn
vào hình 3 ta có thể thấy là tác dụng của hai cánh khác nhau có
cùng diện tích. Cánh bên trái thì ngắn, mập và có tỷ lệ dài rộng
của cánh thấp điển hình cho dù lượn giành cho người mới chơi. Ở
bên phải, là cánh có tỷ lệ dài rộng của cánh là cao điển hình
cho cánh dù của người bay ở cấp trung hay thi đấu. Ta có thể
thấy cánh dù có tỷ lệ dài rộng của cánh cao sẽ tạo ra ít cản cảm
ứng, bởi vì không khí phải đi trên quãng đường ít hơn trên cánh
và do đó không khí bị lệch hướng hay lực cản tạo ra được giảm
thiểu.
Cản cảm ứng
tăng lên khi tốc độ giảm đi bởi vì dòng khí bị lệch hướng trên
toàn bộ cánh. Nếu một cánh chuyển động nhanh trong không khí, nó
không mấy khi bị lệch trên toàn cánh. Để không khí chuyển động
chậm lại một chút trên cánh và không khí bị lệch hướng thêm.
Điều này làm không khí bị trộn vào nhau nhiều hơn và tạo ra xoáy
lóc lớn hơn và tăng cản cảm ứng. Lực cản sẽ tiếp tục tăng cho
đến điểm tại đó cánh dù thất tốc.
Nếu ta quan
sát một tàu lượn ta có thể nhận thấy là cánh của nó rất hẹp và
dài. Khi ta cho rằng nói chung là bay ở tốc độ thấp thì ta có
thể lý giải được lý do tại sao người ta lại thiết kế như vậy. Do
nó bay chậm nên cản hình học không phải là điều đáng lo ngại so
với cản cảm ứng, và cản cảm ứng đòi hỏi phải có khổ cánh ngắn
nhằm giảm thời gian không khí phải đi khi di chuyển trên cánh.
Ngược lại, máy bay bay với tốc độ cao quan tâm nhiều đến việc
tăng cản hình học và cánh dài dẫn đến thiệt hại rất nhiều do lực
cản hình học. Để giảm lực cản này, nói chung máy bay sẽ có cánh
ngắn và mập. Do không khí chuyển động nhanh qua cánh mập, cho
nên ít có khả năng bị lệch hướng trên toàn cánh, và do đó cản
cảm ứng không phải là điều đáng lo ngại.
Do dù lượn
nói chung bay chủ yếu ở tốc độ thấp, cho nên việc giảm cản cảm
ứng sẽ làm cho tính năng bay tốt hơn là giảm cản hình học của
cánh. Điều này dẫn đến kết luận là cánh dài và hẹp thì tốt cho
mục đích của dù lượn. Và thực tế cho thấy, một số nhà thiết kế
có thể đã đi quá xa dẫn đến tạo ra các cánh dù có thiên hướng
làm cho nhiều phi công phải ngạc nhiên.
Trong bài
tiếp theo ta sẽ xem xét đường cong cực của cánh và làm thế nào
để ta sử dụng thông tin thu được để tối đa hóa tính năng bay
Hình 3: Tác
động của tỷ lệ dài rộng của cánh
Xem tiếp